Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Cuộc đời kỳ lạ của lão nghệ nhân người Hà Nhì

Cuộc đời kỳ lạ của lão nghệ nhân người Hà Nhì

Giống như nhiều người Hà Nhì khác, ông Pờ Lóng Tư (SN 1950) ở bản Mù Cả, xã Mù Cả, huyện Mường Tè (tỉnh Lai Châu) cũng thích thổi sáo, thổi ví, thổi kèn lá, thích hát kể trường ca, nhưng ông cũng không thoát khỏi sự mê hoặc của “nàng tiên nâu” – thứ cây tăm tối như tấm màn đen đã trùm lấy cả vùng Tây Bắc một thời.


Chìm đắm trong thuốc phiện 10 năm, ông Tư đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thăng tiến của đời mình. Tiếc nuối cho mình và thương xót vợ con, ông quyết tâm tự cai nghiện bằng được. Thế rồi, bởi đắm đuối, nặng lòng với văn hóa giàu có và đậm đặc của dân tộc mình, ông đã trở thành nghệ nhân người Hà Nhì nổi tiếng khắp vùng đất ngã ba biên giới.


Cuộc đời kỳ lạ của lão nghệ nhân người Hà Nhì


Chân dung nghệ nhân kỳ lạ ở bản Mù Cả, Mường Tè, Lai Châu.


10 năm nghiện rồi tự cai nghiện thành công


Nhập ngũ năm 1971, ông Tư trở thành lính trinh sát. Năm 1976 ra quân, tổ chức đề nghị giữ ông lại, chuyển về công tác tại huyện đoàn Mường Tè và đã có nhiều năm giữ chức Phó Bí thư Huyện đoàn.


Năm 1989, vì hoàn cảnh gia đình nheo nhóc, ông xin được nghỉ công tác sớm, về sống cùng gia đình tại bản Mù Cả.


Ông Tư nhớ lại quãng thời gian trên đất Mường Tè, “ả phù dung” vẫn còn hoành hành ngang dọc: “Những năm 80, 90, bản Mù Cả vẫn còn là vùng núi rừng hoang vu, thuốc phiện được trồng đại trà khắp nương rẫy. Lúc đó bản này có tất cả 22 cái bàn đèn, trong đó có 12 cái bàn đèn là nặng nhất, thì trong đó có tôi”.


Không tin vào những gì mình vừa nghe được, chúng tôi hỏi lại, ông Tư cười vang đáp: “Giời ạ. Không nghiện thuốc phiện mà tôi ngồi thế này á? Tôi cũng làm bí thư, chủ tịch rồi chứ…”.


Những ngày sống quẩn quanh trong khói thuốc phù dung, ông Tư đã chịu nhiều nỗi đau lớn. Trước hết là nỗi đau thân thể mỗi lần “hết thuốc”.


Thuốc phiện đã cấy loài dòi bọ vô hình vào trong xương thịt của ông, vò xé thân thể ông, biến ông từ một người đàn ông cường tráng thành một kẻ nghiện hút gầy gò, ốm yếu. Lớn hơn nỗi đau ấy là nỗi đau tinh thần mà ông Tư phải chịu sau mỗi lần “mê rồi tỉnh”. Lần ấy, vợ đi làm nương, ông Tư ở nhà trông đứa con trai út còn bú sữa mẹ đang bị ốm.


Thế rồi, ông lại lên cơn thèm thuốc phiện. Trong lúc bị “nàng tiên nâu” mê hoặc, ông đã vội vàng ném nắm gạo để nấu cháo vào chính cái nồi mình vừa dùng để chế biến thuốc phiện mà chưa kịp rửa. Đứa bé ăn hết bát cháo loãng rồi bị say thuốc phiện, nó đã lịm đi hàng giờ đồng hồ rồi nôn ọe suốt nhiều ngày.


Vợ ông khóc ngất. Suýt nữa, ông đã tự tay giết chết con trai mình. Ông Tư bảo: “Những ngày ấy, tôi đã phải đối diện với nỗi đau sắp mất người thân. Chính tay tôi đã gây nỗi đau đớn cho đứa con còn đỏ hỏn, cho cả người vợ hiền lành của mình. Cảm giác đó thật là khủng khiếp. Thuốc phiện đã làm tôi mê lú. Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy cái “nghề hút ống tẩu” này của mình không thể tiếp tục kéo dài được, tôi đã tìm cách cai nghiện”.


Có một lần, ông Tư quằn quại trong đau đớn khi những con bọ kia đến giờ “đói thuốc”, hành hạ ông. Một chút lý trí còn lại vẫn giày vò ông trong mâu thuẫn giữa việc phải từ bỏ thứ thuốc giết người ấy và sự thèm khát đến cùng cực.


Pờ Lóng Tư kể: “Lúc đó nhà tôi sơ sài lắm không được như bây giờ, nhà cột tre, bếp ở chỗ này, buồng ngủ của vợ chồng tôi ở góc kia. Có lúc lên cơn thèm thuốc, tôi đào một cái hố to ngay cạnh bếp lửa đấy, nhảy xuống dưới đó rồi gọi vợ rằng: Thôi bà chôn tôi đi, đằng nào cũng một lần chết”. Lúc ấy, vợ ông Tư đang cho con bú ở trong buồng, nghe ông Tư kêu gào đau đớn thì khóc nức nở.


Sau đó, bà chạy đi đâu đó một lúc rồi trở về cầm trên tay khoảng 5 “phân” thuốc phiện đã khô cứng. Ông Tư biết chính xác là thuốc phiện này của người phụ nữ mà buổi sáng ông đã cầm 40 nghìn đi mua.


Ông Tư bảo, khi ấy thuốc phiện chỉ có 7 nghìn một “chỉ” thôi nhưng ông cầm đến 40 nghìn đi mua mà người đó cũng không bán. Ông kể tiếp: “Tôi hỏi: Bà đi lấy thuốc phiện ở đâu? Bà ấy không nói gì. Tôi nhìn lên mũ của bà ấy thì thấy cái vòng hạt cườm – thứ trang sức rất giá trị mà người Hà Nhì vẫn đeo ở trên mũ, đã biến mất.


Tôi mới hỏi, bà lấy cái hạt cườm đem đổi à? Bà ấy gật. Tôi bảo: Bà mang trả đi rồi lấy hạt cườm về, nếu bà không mang đi, tôi sẽ đốt số thuốc phiện này. Thế là bà ấy mang trả…”. Ông Tư cười hóm hỉnh: “Chuỗi hạt cườm ấy bây giờ bà nhà tôi vẫn dùng đấy”.


Những câu chuyện về cuộc đời ông Tư cứ miên man như một khúc trường ca về đời người. Suốt một thập kỷ chìm đắm trong thuốc phiện, đã có những năm, vì không đủ tiền “làm bạn với nàng tiên nâu”, ông Tư đã “khăn gói quả mướp” lên đường tìm kế sinh nhai. Vốn giỏi võ nghệ từ ngày làm lính trinh sát trong quân đội, ông Tư vượt biên sang Lào dạy võ kiếm tiền mua thuốc phiện, hút hít mê mải trong cơn khoái lạc chết người.


Lại đến ngày bừng tỉnh, nhận ra sự mất mát lớn lao của đời mình trong 10 năm ròng, ông kiên quyết rời bỏ bản làng, rời bỏ ngôi nhà thân thuộc để tìm cho mình một phương cách dứt bỏ thứ thuốc khủng khiếp kia.


Ông nhớ lại cái ngày mà mình ra đi: “Lúc bấy giờ nhà tôi có 8 con lợn con, mỗi con nặng khoảng 7 – 8 cân, rất hay chạy vào dũi đất và đồ đạc trong nhà. Có mấy người đến hỏi mua, tôi đồng ý để họ bắt. Họ bắt về, lúc sau lên gọi tôi, mang trả một nửa con lợn, rồi gọi tôi xuống ăn cơm.


Tôi bảo thôi thôi chúng mày ăn đi, tao xin tiền rồi tao đi tìm thuốc phiện hút. Họ cho 40 đồng, tôi sang bản Ma Ký. Đúng ra 40 đồng là phải lấy được hai “chỉ” thuốc phiện, nhưng tôi chỉ lấy được có 60 phân cả giấy, lọc ra thuốc phiện chỉ còn không quá 2 phân. Tôi nghĩ mà uất quá. Vợ con tôi làm việc quần quật, tôi bán con lợn đi lại chỉ để mua thuốc phiện cho mình, công sức của vợ con tôi rẻ mạt thế sao?”.


Ông Tư nói như thề với người bạn thân ở bản Ma Ký: “Từ bây giờ, tao không bao giờ sang Ma Ký nhà mày tìm thuốc nữa…”. Người bạn của ông Tư ra vườn hái cho ông bốn trái bưởi, ông Tư mang về nhà, nói với vợ con rồi gói ghém đồ đạc, rủ vợ con lên nương cách bản rất xa rồi ở luôn trên đó, không trở về nữa.


Ông kể: “Tôi nghiện 10 năm. Chính xác là tháng 7 năm 1997 tôi bắt đầu cai, đi ngủ nương tự cai thôi. Từ lúc trồng lúa cho đến khi thu hoạch xong rồi, tôi lại cày hết nương này đến nương khác… Tôi lao vào làm việc, lúc lên cơn nghiện thì có vợ con giữ lại, mãi rồi tôi cũng tự cai được thành công”.


Những năm nghiện thuốc phiện ấy dù khổ cực nhưng ông Tư luôn có vợ, có con bên cạnh chăm sóc, động viên. Ông bảo, tất cả những người nghiện ma túy ít ai không bị vợ con mắng mỏ, xúc phạm, nhưng riêng ông Tư lại được vợ con chăm sóc rất chu đáo.


Chính sự chu đáo và quan tâm ấy nên ông mới trở lại được làm người. Ở bản Mù Cả này, nhiều người nghiện thuốc phiện cũng được đưa đi cai ở các trung tâm nhưng dường như không hiệu quả. Vì thế, bấy lâu nay, họ vẫn rất lấy làm kinh ngạc và khâm phục Pờ Lóng Tư vì kỳ tích lạ lùng này.


Người duy nhất lưu giữ được trường ca của dân tộc Hà Nhì


Cuộc đời kỳ lạ của lão nghệ nhân người Hà Nhì


Một phần văn hóa của người Hà Nhì được sưu tầm rồi biên dịch ra tiếng phổ thông của nghệ nhân Pờ Lóng Tư.


Văn hóa của người Hà Nhì ngày càng bị mai một đi nhiều, điều đó làm cho Pờ Lóng Tư nhiều đêm mất ăn mất ngủ. Ông thường nghĩ, người Hà Nhì giàu văn hóa lắm, đời ông cha của mình còn giữ được đến 70%, nhưng đến thế hệ của ông chỉ còn lại khoảng 30%.


Ông lo lắng tự hỏi, liệu đến đời con ông, cháu ông, những bản sắc văn hóa ấy còn giữ lại được bao nhiêu nữa? Nghĩ là làm, khi còn giữ chức Phó Bí thư Huyện đoàn Mường Tè, ông đã bắt đầu thu thập tư liệu, tập trung vào công việc viết lách: “Từ năm 1983 đến năm 1989, 7 xã ở Mường Tè không có xã nào tôi không đi cả, không có bản Hà Nhì nào tôi không đi cả. Tôi đi gặp các cụ tỉ tê, hỏi chuyện rồi cứ ghi chép lại đấy. 1 – 2 giờ sáng vợ tôi tỉnh giấc, thấy tôi còn lom khom bên ngọn đèn đấy thì kêu: Ôi ông ơi, ông điên mất rồi, ông ngủ đi, viết lách làm cái gì nhiều thế? Tôi bảo kệ tôi, bà cứ ngủ đi…” .


Thời gian trôi qua, khối lượng những tác phẩm văn hóa dân gian mà ông Tư sưu tầm được ngày càng dày đặc với trường ca, sử thi, dân ca giao duyên, luật tục… Đến tận năm 2007, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian mới tìm được đến với ông.


Nhận được những lời mời cộng tác, Pờ Lóng Tư lại vùi đầu vào công việc sắp xếp lại, biên dịch các tác phẩm mà mình đã sưu tầm bấy lâu sang tiếng phổ thông, tiến dần đến mục tiêu của mình, đó là có thể xuất bản những tác phẩm văn học dân gian của người Hà Nhì thành sách, lưu giữ lâu dài cho con cháu mai sau.


Nhiều năm qua, ông đã nỗ lực hết mình trong việc cộng tác với các nhà sưu tầm, nghiên cứu và các cơ quan chức năng trong việc ghi âm, phiên âm, dịch nghĩa, phát hành ấn phẩm… về văn hóa của người Hà Nhì. Thế rồi, họ mới “vỡ òa” ra rằng, Pờ Lóng Tư là người duy nhất ở Việt Nam còn lưu giữ được trường ca của dân tộc Hà Nhì.


Xuất thân trong một gia đình thổ ty thời phong kiến, đời ông, đời cha của Pờ Lóng Tư đều làm thống lý vùng này. Ngay từ nhỏ, ông đã được tiếp cận với nhiều sinh hoạt văn hóa cộng đồng, những sinh hoạt mà chỉ các gia đình giàu có, quyền quý mới có thể tổ chức được.


Trong đó có những đêm hát kể trường ca “Xa Nhà Ca” (ở trên xuống) – một bản thuyết minh đầy đủ nhất về sự hình thành vạn vật, phong tục, bài học xã hội và luân lý theo quan niệm của người Hà Nhì. “Xa Nhà Ca” được hát kể bên mâm rượu ngày tết, do một hay nhiều người thay nhau thực hiện.


Trên mâm nhất thiết phải có 1 con gà và 2 chén rượu để dâng cúng tổ tiên cùng các vị thần linh. Nhiều đoạn chính là những bài cúng, bài làm lý trong các nghi lễ thuộc chu kỳ vòng đời con người hoặc các hoạt động mưu sinh, như cúng khi đốt nương, khi đi săn, khi tiễn biệt người chết. Người hát kể vừa uống rượu, vừa hát, nét mặt lúc vui, lúc buồn, khi thong thả, lúc vội vàng theo từng nội dung cốt truyện.


Người hát kể phải có sức nhớ chi tiết, phải biết hát và có sức khỏe để hát. Điều Pờ Lóng Tư lo lắng và mong mỏi nhất bây giờ là làm sao có được truyền nhân để cách hát kể “Xa Nhà Ca” sẽ không bị mai một.


Tâm huyết, sự nỗ lực của ông trong bao nhiêu năm đã có kết quả. Những cuốn sách mà ông Tư đã biên dịch, cộng tác xuất bản đã cho thấy một nền văn hóa Hà Nhì đặc sắc.


Ông mừng lắm. Mừng cho những nét văn hóa giàu bản sắc của người Hà Nhì quê mình được lưu giữ lâu dài, được phổ biến rộng rãi. Mỗi khi có một cuốn sách mới ra đời, Pờ Lóng Tư lại nhận một số sách từ phía nhà xuất bản rồi đem tặng cho các trường tiểu học, trung học, các cơ quan, những người yêu thích đọc sách trên khắp địa bàn xã Mù Cả.


Ông nghĩ, văn hóa của người Hà Nhì trước tiên phải để người Hà Nhì đọc, thẩm thấu rồi lưu giữ những vốn liếng quý báu mà cha ông mình để lại: “Nếu bây giờ không cần đến thì chắc chắn một lúc nào đó, một lớp người, một thế hệ nào đó người ta lục lại sách, rồi người ta thốt lên, ừ, tổ tiên người Hà Nhì, bài cúng, lời hát của người Hà Nhì đây rồi… Tôi chỉ nghĩ đơn giản thế thôi”.


Trong suốt cuộc đời sưu tầm văn hóa dân gian của dân tộc mình, nghệ nhân Pờ Lóng Tư mê nhất là dân ca giao duyên. Ông đã đi nhiều nơi, sưu tầm được một vốn kha khá nhưng ông vẫn mải mê tìm kiếm, ghi chép những luật tục trong đời sống của người Hà Nhì.


Có những phần luật tục đã bị mai một, không còn hiện diện phổ biến trong đời sống của người Hà Nhì nữa, ông phải tìm đến các già làng, những người cao tuổi lắm mới biết và kể lại cho mình.


Ông lo lắng bảo: “Cái này là phải làm nhanh không là các cụ “đi” hết. Ở đây có hai thầy mo cũng già lắm rồi, thế thì tôi chỉ còn hỏi các cụ được thôi”.


Mong muốn ấp ủ bấy lâu của ông là sẽ sớm có thêm những cuốn sách sưu tầm dân ca giao duyên và luật tục của người Hà Nhì được xuất bản. Dự định thì nhiều, công việc thì bộn bề, một mình ông già Pờ Lóng Tư làm có phần quá sức.


Nhưng ông vẫn lạc quan bằng cái giọng rầu rầu: “Tôi làm được đến đâu thì làm thôi, làm những cái không thể trì hoãn được nữa, còn những cái khác thì để người khác làm thôi”.


​Theo vietbao





Xem chi tiết: /xa-hoi/doi-song/2013/06/cuoc-doi-ky-la-cua-lao-nghe-nhan-nguoi-ha-nhi/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NIỀNG RĂNG ĐẸP

Điều trị tủy răng Mảng bám răng (Dental plaque) hay còn gọi là bựa răng là một lớp màng quánh dính, không màu, bám trên bề mặt răng. Thành phần của nó bao gồm các loại vi khuẩn (sống và chết), protein của nước bọt, thức ăn thừa, đường (từ thức ăn). Hình thành khoảng 24h sau khi ăn …Đây là tác nhân chủ yếu trong các bệnh sâu răng và quanh chân răng.

Mảng bám răng sinh ra rất nhanh sau khi vệ sinh răng miệng, bất kể thành phần thức ăn của bạn trong ngày, tuy nhiên khi lượng đường pha chế trong thức ăn tăng thì tốc độ sinh ra mảng bám cũng tăng lên. Đó là vì vi khuẩn, cũng giống như con người, cần có thức ăn để tồn tại và đường chính là thức ăn tuyệt vời nhất cho chúng.

Hình tổng quát và Mảng bám răng nhìn dưới kính hiển vi điện tử
Vi khuẩn tiêu hoá đường và thải ra acid. Chính lượng acid này là nguyên nhân trực tiếp gây ra sâu răng, bởi vì nó làm tiêu huỷ cấu trúc tinh thể can-xi của men răng và ngà răng, dần dần tạo ra lỗ sâu.

Vì khuẩn còn sử dụng trực tiếp các phân tử đường (Dextran) để liên kết với nhau trong mảng bám, từ đó phát triển dần kích thước của mảng bám. Có khoảng 70% trọng lượng của mảng bám là vi khuẩn, tức là trong 1 mg mảng bám (bằng kích thước một đầu tăm) có chứa tới 1 tỉ vi khuẩn.

Mảng bám răng thường được tập trung ở cổ răng, là nơi tiếp giáp giữa răng và lợi, hoặc ở kẽ răng, là những nơi mà bàn chải không “với tới”. Nếu để mảng bám tổn tại lâu và tập trung với số lượng lớn thì chúng sẽ kích thích, gây viêm lợi. Lợi sẽ trở nên sưng, đỏ và rất dễ chảy máu. Có thể coi chảy máu lợi (hay còn gọi là chảy máu chân răng) là dấu hiệu đầu tiên thông báo rằng lợi của bạn có vấn đề.

Khi mảng bám còn mềm, các bạn có thể làm sạch khỏi bề mặt răng bằng bàn chải hoặc chỉ nha khoa. Nhưng khi nó đã tồn tại lâu trong miệng nó sẽ trở thành cao răng trở nên cứng, bám rất chắc vào bề mặt răng hoặc nằm khuất dưới mép lợi. Đến lúc này thì chỉ có nha sĩ mới có thể làm sạch được chúng bằng các dụng cụ đặc biệt.

Cao răng (Dental calculus, tatar) là gì?
Cao răng là mảng bám đã được vôi hoá bởi hợp chất muối calcium phosphate trong nước bọt.
Thông thường mảng bám cần tồn tại trong miệng khoảng 1 tuần để biến thành cao răng. Vì vậy nếu chúng ta làm vệ sinh răng miệng kĩ và thường xuyên thì cao răng sẽ không còn cơ hội hình thành.
Cao răng thường tập trung ở cổ răng, có màu trắng đục, ở những người hút thuốc lá thì cao răng nhuộm màu vàng nâu, gây mất thẩm mỹ. Bề mặt gồ ghề của cao răng chính là nơi lý tưởng để vi khuẩn phát triển. Nếu để tồn tại lâu, cao răng phát triển dần về kích thước, lan dần xuống phía dưới chân răng, đẩy lợi tụt xuống, dần dần gây bệnh quanh chân răng, rụng răng.

Cao răng c ó hai loại là Cao răng thường và cao răng huyết thanh. Cao răng thường như đã mô tả ở trên, khi cao răng thường gây nên viêm lợi tại chỗ, lợi vùng viêm đó sẽ tiết dịch viêm và chảy máu, máu đó ngấm vào cao răng thường tạo nên màu nâu đỏ lúc này mảng cao răng đó được gọi là cao răng huyết thanh

1 cao răng thường. 2 cao răng huyết thanh
Lấy cao răng bằng máy siêu âm là phương pháp hiện đại và tiện nghi nhất hiện nay vì đạt được mục tiêu lấy cao răng triệt để và cảm giác êm ái cho bệnh nhân. sóng siêu âm tần số 25kHz cùng với dòng nước vô khuẩn tác động tập trung lên cao răng làm cao răng bong ra và bị hút theo ống hút nước bọt

Đánh bóng có tác dụng gì?
Những người có hút thuốc lá và có hiện tượng răng xỉn đi là do lớp cao răng mỏng bám xung quanh thân răng bị khói thuốc ám vào. Lâu ngày biến thành màu vàng nâu, gây mất thẩm mỹ. Đánh bóng bề mặt lấy đi lớp cao răng này và hơn nữa làm nhẵn bóng bề mặt răng. Bề mặt răng nhẵn bóng làm chậm quá trình lắng đọng thức ăn và vi khuẩn vì thế làm trì hoãn quá trình hình thành cao răng.

Ý nghĩa và cách dùng chỉ tơ nha khoa
Quả thực dù bạn có chăm chỉ đánh răng ngay sau khi ăn uống thì vẫn còn khoảng 30% số chất bẩn vẫn bám ở các kẽ răng, cổ răng (nơi tiếp giáp giữa răng và lợi) nơi lông của bàn chải đáng răng không thể chạm tới. Số chất bẩn này nếu không được loại bỏ sẽ kết hợp với protein có trong nước bọt tạo thành cao răng. Nếu để mảng bám tổn tại lâu và tập trung với số lượng lớn sẽ khiến lợi bị sưng, đỏ và rất dễ chảy máu hay còn gọi là viêm lợi.

Để tránh hiện tượng này, ngoài việc đánh răng đúng kỹ thuật ngay sau bữa ăn cần sử dụng thêm chỉ tơ nha khoa nhằm hỗ trợ cho việc loại bỏ số chất bẩn thừa “ngoan cố” bám sâu trong kẽ răng. Tuy nhiên, sử dụng chỉ tơ nha cũng cần đúng kỹ thuật thì mới đạt kết quả cao nhất.

Cần lựa chọn loại chỉ tơ có đường kính phù hợp, dễ sử dụng để không gây chấn thương nướu răng. Lấy một đoạn chỉ dài thích hợp rồi cuộn hai đầu chỉ vào hai ngón giữa, căng đoạn chỉ này bằng hai ngón cái và ngón trỏ. Kéo nhẹ nhàng để sợi chỉ chui lọt vào kẽ răng, sau đó uốn sợi chỉ ôm quanh răng. Kéo chỉ lên xuống để làm sạch răng. Nên đưa sợi chỉ nhẹ nhàng dưới nướu một chút. Với mỗi kẽ răng, cần thực hiện động tác giống nhau ít nhất hai lần, một cho phía bên phải, một cho phía bên trái. Chú ý đặc biệt ở các mặt xa răng cối trong cùng, vì nơi này thường bị bỏ sót khi chải răng.

Như vậy, đánh răng cùng với sự hỗ trợ của chỉ tơ nha khoa sẽ giúp tránh được hiện tượng mảnh bám trên răng. Tuy nhiên, với những mảng bám lâu ngày đã đã bị vôi hoá bởi các hợp chất Can-xi trong nước bọt thì phải có sự cần có sự can thiệp nha sĩ, răng mới được làm sạch.
Chải răng đúng cách

(từ khóa: lay cao rang, lấy cao răng, lay cao rang co dau khong, lấy cao răng có đau không? lay cao rang co hai gi khong, lấy cao răng cso hại gì không? phòng khám lấy cao răng tốt nhất, phòng khám lay cao rang tot nhat, lay cao rang o ha noi, lấy cao răng ở hà nội, lay cao rang o dau tot nhat, lấy cao răng ở đau tốt nhất…)